Đi cùng với “công nghệ 4.0”, “chuyển đổi số”, cụm từ “đổi mới sáng tạo” (ĐMST) ngày càng xuất hiện một cách phổ biến hơn trong bối cảnh hội nhập và thương mại hóa đa quốc gia. Theo định nghĩa, “ĐMST là quá trình doanh nghiệp phát triển các sản phẩm, dịch vụ, quy trình hay hệ thống quản lý mới để đáp ứng các yêu cầu do sự thay đổi của môi trường kinh doanh, công nghệ hay mô hình cạnh tranh”. (D’Aveni, R. A. (1994), Hypercompetition: Managing the Dynamics of Strategic Manoeuvring, New York: The Free Press); hoặc “ĐMST là quá trình đưa vào áp dụng một sản phẩm hoặc quy trình mới, một phương pháp tiếp thị mới, hoặc một phương pháp tổ chức mới hoặc cải thiện đáng kể trong hoạt động sản xuất, kinh doanh (OCED, Oslo Manual (2005)).
Theo tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO)
Theo cách tiếp cận của OCED, đồng thời dựa trên số liệu trong cuộc Điều tra công nghệ của Tổng cục Thống kê (GSO) giai đoạn 2012 – 2017, một vài nét về thực trạng ĐMST của doanh nghiệp Việt Nam được phản ánh qua các kết quả chủ yếu sau.
Hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ (R&D) có tỷ lệ đầu tư thấp
Theo số liệu GSO giai đoạn 2012-2017, theo quy mô, tỉ lệ doanh nghiệp có hoạt động R&D chiếm từ 1-5% đối với doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ; chiếm 6-12% đối với doanh nghiệp vừa và lớn; theo loại hình doanh nghiệp, tỉ lệ doanh nghiệp nhà nước cao nhất (25%), tiếp đến doanh nghiệp ngoài nhà nước (6%) và doanh nghiệp FDI (5%). Xem xét một số nghiên cứu trước đây cũng cho thấy kết quả tương tự như: GSO (2014) cho thấy R&D chỉ chiếm 6,23% trong tổng số 7.450 doanh nghiệp, chứng tỏ số lượng các doanh nghiệp Việt Nam chưa quan tâm đến các hoạt động R&D là rất lớn, các doanh nghiệp tiến hành R&D đa phần phục vụ mục đích ứng dụng, vận hành công nghệ hơn là đổi mới công nghệ. Bên cạnh đó, chi tiêu R&D bình quân/lao động của Việt Nam hiện rất thấp so với các nước trong khu vực.Theo nghiên cứa của Viện Hàn lâm Khoa học và xã hội Việt năm 2015, Việt Nam chỉ chi 15 USD/người cho R&D trong đó Thái Lan là 64 USD/người, Malaysia là 260 USD/người, Trung Quốc là 300 USD/người, Nhật Bản là hơn 2.300 USD/người. Theo Báo cáo GII (2019) chỉ ra chi phí R&D tuy tăng 6 bậc nhưng vẫn ở mức chi thấp tương đượng 0,4%/GDP và không thay đổi so với năm trước.
Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới (World Bank)
Cải tiến chất lượng sản phẩm là chiến lược được nhiều doanh nghiệp lựa chọn nhất
Chiến lược đổi mới và tổ chức cái tiến công nghệ của doanh nghiệp là một trong những yếu tố đầu vào quan trọng của quá trình đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp, thường bao gồm: cải tiến qui trình sản xuất; cải tiến chất lượng sản phẩm; mở rộng nhiều loại sản phẩm; mở rộng hoạt động vào một lĩnh vực sản xuất kinh doanh mới; thay đổi hoạt động sang lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác.
Theo số liệu GSO giai đoạn 2012-2017, cải tiến chất lượng sản phẩm là hạng mục chiếm tỷ lệ trung bình cao nhất, đạt mức 75%; tiếp đến là qui trình sản xuất với mức 67%; mở rộng nhiều loại sản phẩm chiếm 43% doanh nghiệp lựa chọn. Trong đó, hai hạng mục mở rộng hoạt động vào một lĩnh vực sản xuất kinh doanh mới và thay đổi hoạt động sang lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác chỉ chiếm 11% và 3% doanh nghiệp lựa chọn.
Theo loại hình, doanh nghiệp nhà nước có chiến lược đổi mới và cải tiến công nghệ với tỷ lệ cao nhất ở hầu hết các hạng mục, tiếp đến doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp FDI. Lý giải về việc doanh nghiệp trong nước thường có tỷ lệ cao hơn doanh nghiệp FDI, vì phần lớn doanh nghiệp trong nước là doanh nghiệp nhỏ và vừa cần có nhu cầu đổi mới và tổ chức cải tiến công nghệtrong khi doanh nghiệp FDI thường là những doanh nghiệp đến từ nước công nghiệp phát triển có công nghệ, kỹ thuật, phương thức quản lý tiên tiến hơn.
Chi phí mua công nghệ máy móc sản xuất và truyền thông chủ yếu từ doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp lớn.
Theo phân tích ở trên, mặc dù tỷ lệ lựa chọn của doanh nghiệp FDI về chiến lược đổi mới & tổ chức cải tiến công nghệ và hoạt động R&D thấp hơn doanh nghiệp trong nước, nhưng chi phí công nghệ máy móc sản xuất và truyền thông bình quân cao gấp 3,8 lần so với doanh nghiệp nhà nước và 3,9 lần so với doanh nghiệp ngoài nhà nước. Theo quy mô doanh nghiệp, trung bình doanh nghiệp lớn có mức chi phí cao nhất, cao gấp 2,6 lần doanh nghiệp vừa; hơn 9,5 lần doanh nghiệp nhỏ; so với doanh nghiệp siêu nhỏ là 26 lần. Điều này chỉ ra rằng, các doanh nghiệp Việt Nam “ngại” đầu tư cho đổi mới công nghệ, và tập trung chủ yếu ở doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp lớn.
Theo GSO (2014), tỉ trọng đầu tư cho KHCN của doanh nghiệp chỉ khoảng 1% GDP và tập trung vào các doanh nghiệp lớn (chủ yếu khối doanh nghiệp nhà nước). Thực tế cho thấy, khu vực doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt doanh nghiệp vừa và nhỏ hầu như chưa tham gia nhiều vào hoạt động R&D và đầu tư mua máy móc sản xuất và truyền thông. Đa phần các doanh nghiệp đổi mới công nghệ một cách thụ động, mang tính tình huống, do nhu cầu phát sinh trong quá trình kinh doanh, không có kế hoạch dài hạn, phương thức được sử dụng nhiều nhất lại là nguồn công nghệ nhập khẩu.
Nhận định qua một vài nét về thực trạng ĐMST ở doanh nghiệp Việt Nam, có thể thấy ĐMST tại doanh nghiệp vẫn chưa thực sự hiệu quả, có nguy cơ trở thành khẩu hiệu, phong trào, không được duy trì và đem lại được các giá trị bền vững. Vậy tồn tại nguyên nhân và rào cản nào trong quá trình ĐMST ở các doanh nghiệp Việt Nam?
Đầu tiên, phải xem doanh nghiệp đã hiểu đúng về ĐMST hay chưa? Trên thực tế, đổi mới sáng tạo không chỉ đơn giản là thiết bị mới, ý tưởng mới hay phương pháp mới, mà nó được thực hiện qua một quá trình khám phá ra những cách làm mới. Nó cũng có mối liên hệ mật thiết với thay đổi mô hình kinh doanh và thích nghi với những thay đổi để tạo ra những sản phẩm dịch vụ tốt hơn (Theodore Henderson, Forbes 2017). Theo Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy, việc hiểu theo nghĩa hẹp đổi mới sáng tạo là những kết quả trực tiếp tạo ra từ hoạt động R&D ở các quốc gia dẫn đầu chưa phù hợp với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. “Ở nghĩa rộng hơn, người ta coi tính mới ở nghĩa tương đối, có thể không mới so với thế giới nhưng miễn là mới ở Việt Nam hoặc mới ở doanh nghiệp. Khi đó, thực hiện đổi mới sáng tạo có thể còn là việc áp dụng các mô hình quản lý mới cho doanh nghiệp của mình”. Do đó, các hoạt động đổi mới sáng tạo sẽ được trải nghiệm trên một phạm vi lớn hơn và đa dạng hơn, “không chỉ thuần túy là một quy trình từ nghiên cứu, phát triển ra công nghệ, sáng chế rồi đem áp dụng vào quá trình quản lý hay sản xuất mà có thể là việc áp dụng những cái đã có ở các quốc gia khác, chưa từng áp dụng ở Việt Nam”.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy chia sẻ về những chính sách thúc đẩy phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại Việt Nam.
Ngoài chủ thể doanh nghiệp, là đối tượng trực tiếp triển khai và thụ hưởng thành tựu, để hoạt động hiệu quả, ĐMST cần “hệ sinh thái” trong đó cơ quan nhà nước đóng một vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra môi trường “hệ sinh thái”, cơ chế thúc đẩy hoạt động ĐMST và tăng năng lực ĐMST của quốc gia. Không chỉ doanh nghiệp cần hiểu đúng về ĐMST, các cơ quan nhà nước cũng cần hiểu ĐMST theo nghĩa rộng hơn. Điều đó tác động trực tiếp đến việc xây dựng các chính sách khuyến khích đổi mới sáng tạo ở Việt Nam và những bên hưởng thụ chính sách. Do hiểu đổi mới sáng tạo theo nghĩa hẹp nên mô hình thúc đẩy đổi mới sáng tạo mà Việt Nam vẫn áp dụng là mô hình tuyến tính, bám sát từng bước của quy trình làm ra công nghệ mới, tức là bao gồm cả các hoạt động nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng để tạo ra sản phẩm có thể chuyển giao cho doanh nghiệp, các chính sách ưu đãi và khuyến khích đổi mới sáng tạo chưa thật sự điểm trúng các đối tượng thụ hưởng, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn chiếm tới 96% số lượng doanh nghiệp Việt Nam.
Do đó, theo lý thuyết thì Việt Nam có thể tận dụng được thành tựu của quốc gia đi trước để thực hiện đổi mới sáng tạo nhưng trên thực tế thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ không làm được điều đó, Thứ trưởng Bùi Thế Duy đề cập đến thông tin từ buổi làm việc với Worldbank về tình hình đổi mới sáng tạo ở Việt Nam. Nghịch lý này cho thấy, để tiếp thu được công nghệ và đổi mới sáng tạo, các doanh nghiệp này cần được đầu tư nâng cao năng lực hấp thụ ở một mức độ nhất định trước đó. “Chính sách của chúng ta chưa chạm đến doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo Worldbank, với cách làm chúng ta áp dụng hiện nay thì doanh nghiệp chưa thực sự là trung tâm, chúng ta mới đưa ra mục tiêu còn cách vận hành hiện nay thì chưa thuận lợi cho doanh nghiệp, chưa có cơ chế khuyến khích một cách thực sự cho doanh nghiệp đầu tư vào đổi mới sáng tạo”. Đó chính là rào cản của ĐMST ở doanh nghiệp Việt Nam. Theo ông Phạm Hồng Quất, Cục trưởng Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp KH&CN (Bộ KH&CN), “hầu như hiện nay chưa có doanh nghiệp, tập đoàn lớn của chúng ta được công nhận là doanh nghiệp KH&CN, phần lớn là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ”. Do đó, chính sách cần hướng đến đối tượng này thông qua việc “đào tạo họ, đưa cho họ những công cụ để họ hấp thụ và chuyển sang đổi mới công nghệ”.
Bên cạnh đó, việc việc “đổ dồn” chính sách vào một đối tượng thụ hưởng như doanh nghiệp cũng không thể giải quyết vấn đề. Như đã phân tích, đối tượng doanh nghiệp chỉ là một chủ thể của “hệ sinh thái” ĐMST. Việc tập trung nguồn lực, chính sách chỉ cho một chủ thể khiến “hệ sinh thái” phát triển không đầy đủ, rời rạc và thiếu liên kết. Điều này thể hiện rõ nét ở tương tác của doanh nghiệp và trường viện vẫn còn ở mức thấp và trường viện mới đóng vai trò hỗ trợ chứ chưa dẫn dắt ĐMST. Theo ông Phạm Hồng Quất, Bản thân việc khai thác nguồn nhân lực của viện trường cho doanh nghiệp cũng không dễ. “Chúng ta chưa có cơ chế hỗ trợ, chúng ta mới chỉ nghiệm thu xong kết quả còn những người chủ nhiệm chương trình tự phải đi tìm doanh nghiệp chuyển giao. Nếu doanh nghiệp muốn mời đến để chuyển giao tri thức và kỹ năng hỗ trợ thì không có cơ chế nào cho làm việc đó, không có kinh phí làm hậu chuyển giao (giai đoạn tốn rất nhiều công sức và tiền bạc để doanh nghiệp có thể tiếp nhận thành công công nghệ). Vậy nên viện trường thì không có động lực, còn nhiều công nghệ, giải pháp và mô hình được nghiên cứu ra thì chỉ quanh quẩn trong khuôn viên trường viện.
Ngoài ra, giữa ba chủ thể của “hệ sinh thái” này còn thiếu đi sự liên kết mật thiết do thiếu thông tin – thông tin thị trường, thông tin dự báo, thông tin về chuyên gia, thông tin về công nghệ, các dịch vụ liên kết mạng lưới các đơn vị nghiên cứu, các doanh nghiệp… Đó cũng là một rào cản khiến hoạt động ĐMST ở Việt Nam chưa thực sự khả thi và hiệu quả.
Việc tháo gỡ những điểm nghẽn trên con đường đổi mới sáng tạo ở Việt Nam sẽ còn phụ thuộc vào sự thay đổi về cơ chế chính sách và cả quan điểm trong quản lý về đổi mới sáng tạo. Trong bối cảnh hệ sinh thái đổi mới sáng tạo còn yếu và chưa đầy đủ, để tháo gỡ khó khăn, giải tỏa rào cản, Việt Nam cần ưu tiên phát triển năng lực bắt kịp, tức là tiếp cận đến đường biên công nghệ của các quốc gia trên thế giới thông qua tiếp nhận và phổ biến công nghệ (khuyến nghị của World Bank). Hơn nữa, Việt Nam cần có những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận các công cụ quản lý phù hợp với công nghệ mới bởi vì “doanh nghiệp cần đổi cả phương thức quản lý, phương thức kinh doanh (Theo Thứ trưởng Bùi Thế Duy)
_Trung tâm Nghiên cứu, Tư vấn Kinh tế và Kinh doanh_
Tham khảo: Tạp chí Công thương, Tạp chí Khoa học và Phát triển