Theo các báo cáo của Viện Năng suất Việt Nam giai đoạn 2006 - 2015, năng suất lao động (NSLĐ) của nước ta có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều theo các năm. Nhưng thực tế cho thấy, tuy có giữ mức tăng trưởng dương nhưng khoảng cách về năng suất lao động của nước ta so với nhiều nước trong khu vực đang ngày càng bị nới rộng. Đây là yếu tố cản trở đáng ngại đối với khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam tham gia vào các Hiệp định thương mại tự do và Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC).
Khoảng cách NSLĐ Việt Nam so với một số quốc gia trong khu vực (2015)
(Nguồn: Tổng Cục Thống kê, Tổ chức Lao động quốc tế)
Theo Kuznet, Simon – nhà kinh tế học Mỹ: “Một nền kinh tế không thể đạt được tốc độ tăng trưởng cao nếu tỷ trọng các ngành kinh tế không có sự dịch chuyển một cách tương xứng” (Growth and structural shift, 1979). Ngoài các yếu tố ảnh hưởng tới NSLĐ đã nêu ở Phần I, việc cải thiện NSLĐ còn được xem xét qua ảnh hưởng của Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế dẫn đến chuyển dịch cơ cấu lao động, thay đổi NSLĐ nội ngành và mối tương quan của chúng, còn gọi là tác động tương tác. Qua nghiên cứu cho thấy, đóng góp của chuyển dịch cơ cấu lao động vào tăng trưởng của NSLĐ ở nước ta vẫn ở mức cao nhưng có xu hướng giảm, tỷ lệ này trong giai đoạn 2011-2017 đạt 39%, thấp hơn mức 54% của giai đoạn 2000 - 2010. Điều này cũng phù hợp với quy luật phát triển của các nền kinh tế trong giai đoạn chuyển đổi, tăng NSLĐ sẽ ngày càng phụ thuộc vào tăng NSLĐ nội ngành. Nhưng đến nay chưa có thay đổi đáng kể trong bản chất tăng trưởng của ngành, chủ yếu vẫn nhờ vào mở rộng quy mô những ngành sử dụng nhiều lao động, hàm lượng công nghệ thấp, làm cho mục tiêu tăng nhanh giá trị gia tăng của sản phẩm chưa đạt được. Công nghiệp chế biến, chế tạo là ngành dẫn dắt tăng trưởng NSLĐ nhưng tập trung cao ở những sản phẩm xuất khẩu dựa trên nền tảng công nghệ thấp đến trung bình. Trong khi đó, ngành công nghệ cao tập trung ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài lại hoạt động ở khâu lắp ráp, nhập khẩu linh kiện, có giá trị trong nước tương đối thấp. Đồng thời, ngành công nghệ cao chủ yếu tận dụng lao động chi phí giá rẻ, chưa có nhiều tác động lan tỏa đối với khu vực trong nước nên chưa tạo đột phá về tăng trưởng NSLĐ. Đó là chưa kể, chuyển dịch cơ cấu lao động tuy diễn ra khá nhanh nhưng lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản hiện nay còn lớn, đa số lao động trong khu vực này là lao động giản đơn, công việc có tính thời vụ, không ổn định nên giá trị gia tăng tạo ra thấp, dẫn đến NSLĐ thấp. Đến năm 2019, nước ta vẫn còn tới 34,5% tổng số lao động làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, trong khi NSLĐ của khu vực này (GDP tính theo giá thực tế) chỉ bằng 1,4%, trong khi đó về cơ cấu kinh tế, năm 2019, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chỉ chiếm tỷ trọng 13,96% GDP, bằng 1/3 so với GDP từ khu vực dịch vụ và bằng 2/5 so với GDP từ khu vực Công nghiệp – Xây dựng.
Biểu đồ Cơ cấu lao động theo ngành các năm qua các giai đoạn
(Nguồn: Số liệu từ Tổng cục Thống kê)
Thực tế thời gian qua, khu vực nông thôn đang có sự chuyển dịch lao động từ ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản sang các ngành phi nông, lâm nghiệp, thủy sản. Tuy nhiên, lao động di chuyển ra khỏi ngành nông nghiệp chủ yếu lại chuyển sang làm trong các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có năng suất thấp hay các ngành dịch vụ có thu nhập thấp. Ngoài ra, quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp còn hạn chế, chưa tác động tăng cao năng suất nội ngành. Như vậy, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản hiện chiếm tới 37,7% lao động của cả nước nhưng khu vực này mới chỉ tạo ra 14,7% GDP. Đây có thể xem là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho NSLĐ của Việt Nam thấp.
Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), có hai con đường để tăng năng suất lao động cho các quốc gia ASEAN. Con đường thứ nhất là tăng hiệu quả của các ngành công nghiệp chính bằng cách áp dụng công nghệ mới, nâng cấp máy móc và đầu tư vào đào tạo kỹ năng và đào tạo nghề. Tuy nhiên, năng suất lao động có thể tăng nhiều nhất thông qua con đường thứ hai – chuyển dịch sang các hoạt động có giá trị gia tăng lớn hơn. Bởi vậy, các quốc gia cần chuyển dịch từ nông nghiệp và các ngành dịch vụ cấp thấp sang các ngành chế tạo và các ngành dịch vụ cao cấp. Để làm được điều này, các chính phủ cần cung cấp cơ sở hạ tầng có chất lượng, hệ thống giáo dục và phát triển kỹ năng tốt, và các doanh nghiệp cần có khả năng đầu tư và nắm bắt cơ hội. Bên cạnh đó, Cộng đồng kinh tế ASEAN tạo ra tiềm năng lớn để các nước có thể chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ các ngành có năng suất lao động thấp sang các ngành có năng suất lao động cao. Với lợi thế lực lượng lao động có trình độ lao động, chuyên môn nghiệp vụ và kỹ tốt, Việt Nam có thể là một trong những quốc gia được hưởng lợi nhiều từ quá trình này. Nếu Việt Nam tiếp tục cải thiện chất lượng giáo dục và đào tạo, đặc biệt là ở cấp phổ thông trung học và cải thiện chất lượng của các cơ sở đào tạo nghề, Việt Nam sẽ nắm bắt được những cơ hội này. Ngoài ra, Việt Nam cũng nên đầu tư nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng nông thôn.
Tuy vậy nhìn chung, tăng NSLĐ thông qua chuyển dịch cơ cấu từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ rất phổ biến ở các quốc gia có mức độ phát triển thấp. Hiện nay, nước ta vẫn còn dư địa để tiếp tục chuyển dịch cơ cấu nhằm tăng NSLĐ. Tuy nhiên, xu hướng này không thể kéo dài khi Việt Nam phát triển lên mức cao hơn, thu nhập ở khu vực nông thôn gia tăng, cơ cấu kinh tế ổn định sẽ làm giảm đáng kể dư địa cho việc chuyển dịch cơ cấu lao động. Do đó, để tránh quá trình kéo dài mới bắt kịp các nước về NSLĐ, Việt Nam cần quan tâm và nỗ lực nhiều hơn để nâng cao NSLĐ trong các doanh nghiệp, qua đó chuyển dần theo xu hướng mới và phổ biến ở các nền kinh tế tiên tiến, đó là yếu tố tăng năng suất nội ngành đóng vai trò chủ đạo trong việc tăng năng suất của nền kinh tế.
Năng suất lao động và tiền lương
(Hình minh họa)
Tăng năng suất lao động đóng một vai trò quan trọng đối với việc tăng lương thực tế và cải thiện mức sống của người lao động về dài hạn. Khi mức giá trị gia tăng bình quân trên mỗi người lao động tăng lên, doanh nghiệp có thể có khả năng trả lương cao hơn trong khi vẫn duy trì khả năng cạnh tranh. Bởi vậy, bằng cách tăng năng suất lao động, Việt Nam và các quốc gia tương tự có thể cạnh tranh ở các thị trường xuất khẩu dựa trên năng suất lao động cao thay vì dựa vào giá nhân công thấp, vốn được xem là lợi thế trong suốt nhiều năm qua, tuy vậy không còn bền vững trong bối cảnh phát triển kinh tế hướng tới hội nhập sâu và rộng.
Để tránh nguy cơ tụt hậu và vượt qua bẫy thu nhập trung bình, Việt Nam cần tập trung chuyển sang mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất, chất lượng và hiệu quả, trong đó trọng tâm là cải thiện năng suất lao động để tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trong đó, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế dẫn tới chuyển dịch cơ cấu lao động và thay đổi NSLĐ nội ngành, cùng với mối quan hệ tương tác của chúng được xem là nút thắt để giải quyết vấn đề tăng NSLĐ một cách bền vững, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế trong tương lai.
Bài viết: Trung tâm Nghiên cứu, Tư vấn Kinh tế và Kinh doanh