Năm 2020 được coi là một năm của những khó khăn và thách thức lớn đối với kinh tế toàn cầu, khi những tác động tiêu cực của dịch Covid – 19 thể hiện rõ ràng nhất trên lĩnh vực kinh tế xã hội trên toàn thế giới. Việt Nam – dù hiện tại vẫn đang ở mức kiểm soát được dịch bệnh, nhưng cũng không thể đứng ngoài tầm ảnh hưởng của sự suy thoái kinh tế thế giới giữa tâm dịch.
Ngành dệt may và giày dép-túi xách là những ngành chịu tác động sớm nhất và kéo dài nhất của đại dịch COVID-19. Hầu hết các báo cáo ngành của khu vực và thế giới đều cho thấy nhu cầu tiêu thụ hàng may mặc và giày dép giảm chưa từng có trong năm 2020. Theo nghiên cứu của hai tổ chức tư vấn PWC và Wazir Advisors, ước tính trong năm 2020, nhu cầu hàng may mặc của EU và Hoa Kỳ giảm lần lượt là 45% và 40% và giày dép giảm 27% và 21%. Cùng với việc tổng cầu sụt giảm, giá nhập khẩu hàng thời trang vào các thị trường lớn cũng giảm sút ở mức độ chưa từng có trong nhiều thập kỷ qua. Cụ thể, theo tính toán của nghiên cứu này trên cơ sở dữ liệu của Bộ Thương mại Hoa Kỳ, trong vòng 9 tháng năm 2020, giá nhập khẩu may mặc vào Hoa Kỳ đã giảm 13% so với cùng kỳ năm 2019; trong khi mức giảm trung bình của những năm trước chưa tới 1%.
Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt Nam đã có “cú ngược dòng” đáng kể khi tháng 6/2020, Việt Nam chính thức trở thành nhà xuất khẩu hàng may mặc lớn nhất vào thị trường Mỹ. Sau thời gian ban đầu bất ngờ với ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, khá nhiều doanh nghiệp đã nhanh chóng thích ứng và tìm được cơ hội phát triển tốt hơn trong khủng hoảng. Đơn cử như Giovani, một nhãn hiệu thời trang cao cấp của Việt Nam đã bắt đầu sản xuất khẩu trang từ tháng 1/2020, ý tưởng ban đầu là vì trách nhiệm với xã hội, sau đó khi các cửa hàng không thể mở cửa trong thời gian giãn cách xã hội, công ty đào tạo nhanh cho nhân viên để chuyển sang bán hàng online và tư vấn khách hàng qua điện thoại, internet. Với sự nhanh nhạy trong chuyển đổi, ảnh hưởng của COVID-19 tới doanh nghiệp này không quá trầm trọng, thậm chí công ty đã phát triển được mảng bán hàng online và dự định sẽ mở rộng ra khu vực ASEAN và các chuỗi siêu thị ở Nga trong năm 2021.
Giovani chuyển đổi cơ cấu sản phẩm sang sản xuất khẩu trang
TNG cũng là một trong những doanh nghiệp đầu tiên sản xuất khẩu trang. Sau đó, TNG tiếp tục phát triển các sản phẩm quần áo y tế với thương hiệu của TNG để xuất khẩu. COVID-19 đã giúp công ty đẩy mạnh mảng ODM (tự phát triển thiết kế và nguyên vật liệu) và OBM (tự phát triển thương hiệu). Để khắc phục ảnh hưởng do Covid – 19, TNG đã tích cực liên kết với các doanh nghiệp khác ở Việt Nam để tự chủ được hơn 70% nguyên vật liệu cho các sản phẩm y tế. Ông Nguyễn Văn Thời, Chủ tịch Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG cho biết, khi dịch COVID-19 xảy ra, việc đứt gãy nguyên phụ liệu từ nước ngoài khiến doanh nghiệp gặp khó, buộc doanh nghiệp phải tìm kiếm nguồn cung từ các nhà cung ứng trong nước. Chính COVID-19 đã kéo doanh nghiệp trong nước “lại gần” nhau hơn, kết nối tốt hơn.
Trong ngành sợi, đa số các công ty xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc. COVID-19 xảy ra, ngành sợi rất khó khăn. Tuy nhiên, công ty Sợi Phú Bài vẫn duy trì hoạt động khá tốt vì đã phát triển dòng sợi cao cấp để bán cho các nhà máy dệt FDI ngay tại Việt Nam, thay vì phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc. Giám đốc một nhà máy dệt nhuộm FDI nhận định: “COVID-19 khiến chúng tôi quan tâm hơn tới các nguồn sợi ngay tại Việt Nam, thay vì nhập khẩu, giúp giảm chi phí và thời gian vận chuyển. Chúng tôi đã kết nối với một số doanh nghiệp Việt Nam và thông qua Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS). Hiện tại vải của chúng tôi chỉ phục vụ nhu cầu nội bộ, nhưng nếu có cơ hội bán cho các doanh nghiệp khác ở Việt Nam, chúng tôi rất sẵn sàng”.
Doanh nghiệp Việt Nam tăng cường kết nối trước khó khăn và thách thức do dịch Covid - 19
Có thể thấy, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam ứng phó với đại dịch có xu hướng ngắn hạn và trung hạn là đa dạng hóa khách hàng, thị trường và sản phẩm duy trì sản xuất. Các doanh nghiệp da giày có xu hướng giảm gia công, đa dạng hóa khách hàng. Về dài hạn là xu hướng công nghệ xanh và tiếp tục tự động hóa. Đặc biệt, dịch COVID-19 đã khiến cho các doanh nghiệp tăng mạnh nhu cầu liên kết với các doanh nghiệp khác tại Việt Nam. Nhu cầu liên kết giữa các doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay gồm: Liên kết để mua bán nguyên vật liệu trong nước để thay thế nguồn cung nhập khẩu bị gián đoạn hoặc có giá thành cao hơn; liên kết để chia sẻ đơn hàng, đặc biệt giữa các công ty lớn và các công ty vừa và nhỏ; liên kết để học hỏi kinh nghiệm của nhau như công nghệ, máy móc, thực hiện các tiêu chuẩn môi trường (như xử lý nước thải, dùng năng lượng mặt trời…).
Có thể thấy, mặc dù đối mặt với “cơn sóng dữ” COVID-19, hai ngành dệt may và da giày Việt Nam cũng có nhiều cơ hội trong bối cảnh thương mại toàn cầu thay đổi. Một ví dụ điển hình là tại thời điểm bùng phát dịch COVID-19, Trung Quốc không chỉ giảm tổng lượng xuất khẩu (lên tới 50% với một số mặt hàng) mà mức giá cũng giảm sâu nhất (20%). Trong khi đó, hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là mặt hàng khó may, có giá trị cao, nhờ vậy mà vẫn giữ giá và mở rộng thị phần tại thị trường Hoa Kỳ. Vào tháng 6/2020, Việt Nam đã trở thành nhà xuất khẩu lớn nhất hàng may mặc vào Hoa Kỳ, vị trí mà Trung Quốc chiếm giữ nhiều năm nay. Lần đầu tiên sau nhiều thập kỷ, Việt Nam chiếm trên 20% thị phần hàng may mặc vào Hoa kỳ, mặc dù xét về tổng giá trị, xuất khẩu may mặc trong nửa đầu 2020 vẫn chưa đạt mức của năm 2019. Theo phỏng vấn sâu với các nhà máy xuất khẩu sang Hoa Kỳ, một nguyên nhân quan trọng cho xu hướng này là việc các nhãn hàng may mặc đã và đang chuyển đơn hàng từ Trung Quốc sang Việt Nam nhằm tránh ảnh hưởng của cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung.
Ở thị trường châu Âu, hiện tại Việt Nam mới chiếm khoảng 3% thị phần. Với hiệp định EVFTA có hiệu lực ngày 1/8/2020, dự báo xuất khẩu giày sẽ tăng 50% và dệt may tăng 67% vào 2025. Các DN đã bắt đầu một số điều chỉnh mang tính chiến lược trong thời gian 1-3 năm tới. Có tới 55,7% DN dự định thúc đẩy tự động hóa, 49,8% sẽ phát triển sản phẩm mới, 39,9% sẽ đa dạng hơn nữa sản phẩm và 41,5% sẽ đầu tư nâng cao kĩ năng lao động. (Theo nghiên cứu của TS. Đỗ Quỳnh Chi – Giám đốc Trung tâm Quan hệ lao động (ERC)). Ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam chia sẻ, có tới gần một nửa nhãn hàng thời trang cho biết sẽ tăng mua từ Việt Nam sau COVID-19, một phần do chiến lược đa dạng hóa chuỗi cung ứng và một phần do các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam vừa tham gia. Số còn lại cân nhắc về việc thiếu nguyên phụ liệu khiến các nhãn hàng từ châu Âu và khối CPTPP không được hưởng ưu đãi thuế qua hiệp định EVFTA và CPTPP. Các hiệp định thương mại tự do, nhất là EVFTA, RCEP, CPTPP đang có kết cấu thị trường tương đối tốt.
Cơ hội dành cho dệt may Việt Nam trong bối cảnhcác Hiệp định thương mại được ký kết
(Ảnh minh họa)
Rõ ràng với những lợi thế trong bối cảnh và chính sách, thị trường dành cho ngành dệt may và da giày Việt Nam là rộng lớn, nhưng điều quan trọng là chúng ta có cạnh tranh được với các nước như Ấn Độ, Trung Quốc, Bangladesh hay không? Điều đó ngoài việc phụ thuộc vào năng lực hiện có, còn đòi hỏi khả năng đổi mới sáng tạo trong chiến lược để nắm bắt cơ hội của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Trong thời gian tới, thay đổi phương thức sản xuất, kinh doanh để phù hợp với tình hình mới là biện pháp cần thiết. Các doanh nghiệp cần tranh thủ giai đoạn không có đơn hàng tổ chức các khóa đào tạo, nâng cao tay nghề cho công nhân nhằm tăng năng suất lao động; đồng thời, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu thay vì chỉ tập trung vào một số thị trường như trước đây.
_Trung tâm Nghiên cứu, Tư vấn Kinh tế và Kinh doanh_
(Theo Cổng TTDTT Chính phủ: chinhphu.vn)